Truyền thông về An toàn Thuốc của FDA: Đang tiến hành đánh giá an toàn của các loại thuốc uống chống loãng xương (bisphosphonates) và khả năng tăng nguy cơ ung thư thực quản
[07-21-2011] Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đang tiếp tục xem xét dữ liệu từ các nghiên cứu đã công bố để đánh giá xem việc sử dụng thuốc bisphosphonate đường uống có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư thực quản (ung thư thực quản) hay không. Đã có những phát hiện mâu thuẫn từ các nghiên cứu đánh giá nguy cơ này.
Sự thật về bisphosphonat uống
- Thường được sử dụng để phòng ngừa và điều trị loãng xương cũng như điều trị các bệnh về xương khác như bệnh Paget. Loãng xương là căn bệnh khiến xương yếu và dễ gãy.
- Bao gồm: Fosamax (alendronate), Actonel (risedronate), Boniva (ibandronate), Atelvia (risedronate giải phóng chậm), Didronel (etidronate), và Skelid (tiludronate).
- Có thể gây kích ứng thực quản. Thực quản bị kích thích có thể dẫn đến viêm thực quản (viêm) hoặc loét thực quản (vết loét), có thể chảy máu. Nguy cơ xảy ra các biến cố thực quản này thấp khi bisphosphonat đường uống được kê đơn thích hợp và bệnh nhân tuân theo các hướng dẫn sử dụng cụ thể.
Tại thời điểm này, FDA tin rằng lợi ích của thuốc uống bisphosphonate trong việc giảm nguy cơ gãy xương nghiêm trọng ở những người bị loãng xương tiếp tục lớn hơn nguy cơ tiềm ẩn của họ.
Việc xem xét của FDA đang được tiến hành và Cơ quan này chưa kết luận rằng bệnh nhân sử dụng thuốc bisphosphonate đường uống có tăng nguy cơ ung thư thực quản. Cũng cần lưu ý rằng ung thư thực quản rất hiếm, đặc biệt là ở phụ nữ .
Cho đến nay, các nghiên cứu lớn nhất mà FDA đã xem xét là hai nghiên cứu dịch tễ học sử dụng một cơ sở dữ liệu bệnh nhân (Cơ sở dữ liệu Nghiên cứu Thực hành Chung của Vương quốc Anh hoặc GPRD). Một nghiên cứu cho thấy không có sự gia tăng nguy cơ ung thư thực quản. 1 Nghiên cứu thứ hai cho thấy nguy cơ ung thư thực quản tăng gấp đôi ở những bệnh nhân có từ 10 đơn thuốc trở lên hoặc những người đã dùng thuốc hơn 3 năm. 2 Các nhà nghiên cứu bên ngoài khác đang điều tra vấn đề này, sử dụng các cơ sở dữ liệu bệnh nhân khác nhau, đã báo cáo rằng không có nguy cơ tăng hoặc giảm nguy cơ. 3 [Xem Tóm tắt Dữ liệu để biết thêm thông tin về các nghiên cứu]
Bệnh nhân nên nói chuyện với các chuyên gia chăm sóc sức khỏe của họ về những lợi ích và rủi ro của việc dùng bisphosphonate đường uống. Những bệnh nhân dùng bisphosphonat đường uống cần đặc biệt chú ý đến hướng dẫn sử dụng để giảm thiểu mọi tác dụng phụ có thể xảy ra.
FDA sẽ tiếp tục đánh giá tất cả các dữ liệu hiện có hỗ trợ tính an toàn và hiệu quả của thuốc bisphosphonate và sẽ cập nhật cho công chúng khi có thêm thông tin.
Thông tin bổ sung cho bệnh nhân
- Có thông tin mâu thuẫn về việc liệu thuốc uống bisphosphonate có thể ảnh hưởng đến khả năng phát triển ung thư thực quản của bạn hay không.
- Hướng dẫn sử dụng thuốc uống bisphosphonate nên được tuân thủ cẩn thận. Tất cả các loại thuốc uống bisphosphonate, ngoại trừ Atelvia, nên được uống vào buổi sáng sau khi thức dậy, với một cốc nước lọc đầy. Atelvia nên được uống ngay sau bữa ăn sáng. Không nằm xuống hoặc ăn hoặc uống bất cứ thứ gì trong ít nhất 30 đến 60 phút sau khi dùng bất kỳ loại thuốc bisphosphonate đường uống nào.
- Nói chuyện với chuyên gia chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn gặp khó khăn khi nuốt, đau ngực, ợ chua mới hoặc trầm trọng hơn, hoặc gặp khó khăn hoặc đau khi bạn nuốt. Đây có thể là dấu hiệu của các vấn đề về thực quản.
- Bạn không nên dùng bisphosphonat đường uống nếu bạn bị các bệnh lý thực quản làm chậm quá trình rỗng của thực quản, hoặc nếu bạn không thể đứng hoặc ngồi thẳng trong ít nhất 30 đến 60 phút, hoặc có mức canxi thấp trong máu.
- Nói chuyện với chuyên gia chăm sóc sức khỏe của bạn về những lợi ích và rủi ro của việc dùng bisphosphonate đường uống và bạn nên dùng chúng trong bao lâu.
- Thảo luận bất kỳ câu hỏi hoặc thắc mắc nào về thuốc bisphosphonate đường uống của bạn với chuyên gia chăm sóc sức khỏe của bạn.
- Báo cáo bất kỳ tác dụng phụ nào bạn gặp phải cho chương trình FDA MedWatch bằng cách sử dụng thông tin trong hộp "Liên hệ với chúng tôi" ở cuối trang.
Thông tin bổ sung cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe
- FDA chưa kết luận rằng dùng thuốc bisphosphonate đường uống làm tăng nguy cơ ung thư thực quản và có nhiều dữ liệu mâu thuẫn về nguy cơ này.
- Không có đủ dữ liệu để khuyến nghị sàng lọc nội soi những bệnh nhân không có triệu chứng.
- Viêm thực quản và các biến cố thực quản khác đã được báo cáo, đặc biệt ở những bệnh nhân không tuân theo các hướng dẫn cụ thể để sử dụng bisphosphonat đường uống.
- Hướng dẫn bệnh nhân tuân thủ cẩn thận các hướng dẫn sử dụng thuốc uống bisphosphonate mà họ được kê đơn.
- Báo cáo các sự kiện bất lợi liên quan đến thuốc bisphosphonate cho chương trình FDA MedWatch, sử dụng thông tin trong hộp "Liên hệ với chúng tôi" ở cuối trang.
Vào tháng 1 năm 2009, một loạt các trường hợp đã được công bố mô tả các báo cáo được đệ trình lên FDA về ung thư thực quản ở những bệnh nhân được kê đơn uống bisphosphonat. 4 Kể từ đó, một số nghiên cứu dịch tễ học xem xét mối liên quan giữa bisphosphonat uống và ung thư thực quản đã được công bố, với những phát hiện khác nhau. Hai nghiên cứu được công bố lớn nhất đã sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu nghiên cứu thực hành chung của Vương quốc Anh (GPRD).
Một nghiên cứu đã so sánh tỷ lệ ung thư thực quản ở bệnh nhân dùng bisphosphonate đường uống với bệnh nhân không dùng bisphosphonate đường uống. Nghiên cứu này không tìm thấy sự gia tăng nguy cơ ung thư thực quản. 1 Sử dụng cơ sở dữ liệu tương tự, một nghiên cứu thứ hai cho thấy nguy cơ ung thư thực quản tăng gấp đôi ở những bệnh nhân có từ 10 đơn thuốc bisphosphonat uống trở lên hoặc những người đã dùng thuốc hơn 3 năm. 2
Các nhà điều tra khác đang nghiên cứu vấn đề này. Trong một nhóm lớn bệnh nhân người Đan Mạch bị gãy xương, các nhà điều tra phát hiện ra rằng những người sử dụng bisphosphonate (đã dùng thuốc trong thời gian trung bình 1,5 năm) giảm đáng kể nguy cơ ung thư thực quản so với những bệnh nhân bị gãy xương không dùng bất kỳ bisphosphonate nào. 3 Theo dõi dài hạn những người sử dụng alendronate (Fosamax) và những người không sử dụng alendronate cho thấy rằng những người sử dụng alendronate có tần suất kiểm tra nội soi thực quản cao hơn, không có tỷ lệ mắc ung thư thực quản cao hơn và không tăng tỷ lệ tử vong do ung thư thực quản. 5
Sự khác biệt về phương pháp luận trong các nghiên cứu này có thể giải thích cho những phát hiện khác biệt. Ngoài ra, vì những nghiên cứu này là quan sát thay vì ngẫu nhiên, chúng có thể bị sai lệch và gây nhiễu. Ví dụ, có thể tác dụng phụ trên đường tiêu hóa của bisphosphonates làm tăng khả năng bệnh nhân phải nội soi, có thể dẫn đến phát hiện ung thư sớm hơn hoặc ngừng thuốc. Tại thời điểm này, không có đủ thông tin để đưa ra kết luận cuối cùng về một mối liên hệ có thể xảy ra. Đánh giá an toàn của FDA đang được tiến hành. Các nghiên cứu bổ sung được thực hiện trong các cơ sở dữ liệu khác nhau có thể được đảm bảo.
- Cardwell CR, Abnet CC, Cantwell MM, Murray LJ. Tiếp xúc với bisphosphonat đường uống và nguy cơ ung thư thực quản. JAMA 2010; 304: 657-63.
- Green J, Czanner G, Reeves G, Watson J, Wise L, Beral V. Uống bisphosphonates và nguy cơ ung thư thực quản, dạ dày và đại trực tràng: phân tích bệnh chứng trong một nhóm thuần tập chăm sóc ban đầu ở Vương quốc Anh. BMJ 2010; 341: doi: 10.1136 / bmj.c4444.
- Abrahamsen B, Eiken P, Eastell R. Thông tin thêm về các báo cáo về ung thư thực quản khi sử dụng bisphophonate đường uống. N Engl J Med 2009; 360: 1789.
- Wysowski DK. Các báo cáo về ung thư thực quản khi sử dụng bisphosphonate đường uống. N Engl J Med 2009; 360: 89-90.
- Abrahamsen B, et. al. Nguy cơ mắc và tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh ung thư thực quản và ung thư ở người dùng alendronate: một nghiên cứu thuần tập quốc gia. Cuộc họp chung lần thứ 3 của Hiệp hội Mô vôi hóa Châu Âu và Hiệp hội Xương và Khoáng chất Quốc tế, tháng 5 năm 2011.
Comments
Post a Comment